VA là từ viết tắt của tên gọi là bằng tiếng Pháp Végétations Adénoides, Việt Nam gọi là bệnh sùi vòm mũi họng. Đây là một tổ chức lympho nằm ở vòm họng, là một phần của tổ chức hạch bạch huyết Waldeyer. (Vòng Waldeyer bao gồm VA, amidan vòi, amidan hầu, amidan lưỡi. Vòng này bao quanh đường thở và đường ăn. Tất cả các vi khuẩn từ mũi và từ miệng điều phải xuyên qua vòng Waldeyer)
Các tế bào bạch cầu tại VA có khả năng nhận diện và tạo kháng thể. Kháng thể này được nhân rộng và tỏa đi khắp nơi, nhiều nhất là ở vùng mũi họng. Khi vi khuẩn tái xâm nhập, chúng sẽ tự động vô hiệu hóa vi khuẩn và tiêu diệt ngay.
Nguyên Nhân Gây Bệnh Viêm VA
Do thường xuyên tiếp xúc với vi khuẩn nên VA hay bị viêm, nhưng thường là viêm nhẹ. VA giúp trẻ tạo kháng thể qua các lần viêm nhiễm, tuy nhiên nếu sức đề kháng giảm, vi khuẩn có thể xâm nhập toàn bộ VA.
Lúc này bạch cầu không đủ sức chống chọi sẽ “chịu thua” và vi khuẩn bắt đầu cư trú tại đây, sinh sôi nảy nở và gây viêm bệnh lý. Sau nhiều lần nhiềm trùng, VA có thể trở thành ổ chứa vi khuẩn.
Viêm VA phát triển ở lứa tuổi nhỏ và bắt đầu thoái khi trẻ từ 5 – 6 tuổi trở đi. Người lớn cũng có thể gặp phải bệnh viêm VA nhưng rất hiếm.
Những Triệu Chứng của viêm VA cấp và viêm VA mãn tính
Bệnh thường xảy ra ở trẻ từ 6 – tháng tuổi đến 4 tuổi, nhưng cũng có thể gặp ở trẻ lớn. Các biểu hiện có thể gặp là:
+ Trẻ bị sốt 38 – 39 độ C, đôi khi sốt cao trên 40 độ C hoặc không sốt.
+ Trẻ bị nghẹt mũi theo cấp độ nặng dần, nghẹt 1 bên rồi 2 bên. Trẻ thở khó khăn, thường phải há miệng thở, thở khụt khịt, khóc hoặc nói giọng mũi kín... Trẻ nhỏ có thể bỏ bú hoặc bú ngắt quãng vì không thở được bằng mũi.
+ Chảy nước mũi ra phía trước và xuống dưới họng (nước mũi lúc đầu trong về sau đục). Viêm VA càng to thì nghẹt mũi và chảy mũi càng tăng. Viêm VA phát triển lâu ngày thường sẽ dẫn đến chảy nước mũi thường xuyên, nước mũi có màu vàng hoặc xanh.
+ Trẻ có thể bị ho vào ngày thứ 2 hoặc thứ 3 sau khi bị viêm VA.
+ Trẻ mệt mỏi, biếng ăn, quấy khóc, hơi thở có mùi hôi khó chịu.
+ Có thể bị rối loạn tiêu hóa như nôn trớ, tiêu chảy.
+ Trẻ nghe kém.
Viêm VA mãn tính là tình trạng quá phát và xơ hóa của tổ chức này sau nhiều lần viêm cấp tính. Hai dấu hiệu chủ yếu của viêm VA mạn tính là chảy nước mũi và nghẹt mũi mãn tính.
Trẻ chảy nước mũi trong hoặc nhày, cũng có thể chảy nước mũi mủ (bội nhiễm). Chảy mũi thường kéo dài.
Trẻ bị nghẹt mũi ở nhiều mức độ, nhẹ thì chỉ nghẹt mũi về đêm, nặng thì cả ngày, thậm chí tắc mũi hoàn toàn. Trẻ phải thở bằng miệng.
Nếu viêm VA kéo dài, không được điều trị, trẻ bị thiếu oxy mạn tính nên có thể gây ra những biến đổi đặc trưng như:
+ Chậm phát triển về thể chất và tinh thần, chậm chạp, kém hoạt bát.
+ Khó ngủ, nghiến răng khi ngủ, ngủ ngáy, không ngủ yên giấc, thường giật mình, đái dầm. Nặng hơn có thể xuất hiện những cơn ngưng thở khi ngủ.
+ Rối loạn phát triển khối xương mặt: Do trẻ thường xuyên thở miệng, ít sử dụng mũi nên qua nhiều năm chóp mũi trẻ trở nên nhỏ hơn, mũi tẹt, trán dô, mặt dài, hàm trên vẩu, răng hàm trên mọc lởm chởm, hàm dưới hẹp, miệng hở...
Biến chứng của viêm VA ở trẻ em
Viêm VA tái phát nhiều lần sẽ phát triển thành những khối to gọi là sùi vòm, gây che lấp cửa mũi sau. Đồng thời VA cũng trở thành một tổ chức bệnh lý, gây ra những tác hại khó lường.
Các biến chứng của viêm VA thường được chia thành 2 cấp độ: các biến chứng gần (viêm mũi họng, viêm tai giữa, viêm xoang…) và các biến chứng xa (viêm thanh, khí phế quản, viêm đường ruột…).
+ Viêm mũi họng: Viêm VA kéo dài khiến thể tích VA tăng lên, ngăn cản không khí ra vào, khiến trẻ bị nghẹt mũi. Nước có ở mũi không thoát hơi được sẽ đọng lại ngày càng nhiều và chảy ra phía trước, gây chảy nước mũi trong. Nếu tình trạng nghẹt mũi kéo dài, vi khuẩn cộng sinh trong mũi sẽ trở thành vi khuẩn gây bệnh, khiến nước mũi trở thành đục.
+ Viêm tai giữa: Là biến chứng thường gặp của VA. Thường có hai loại: Viêm tai giữa cấp mủ là biến chứng của viêm VA cấp và viêm tai giữa thanh dịch hoặc mủ nhầy là biến chứng của viêm VA mạn tính.
+ Viêm xoang
+ Viêm thanh quản, khí quản.
+ Viêm phế quản: Sau vài ngày sốt, chảy mũi và ho, trẻ sốt cao hơn, ho nhiều dữ dội, thở khò khè và nhanh, nếu nặng có thể có dấu hiệu khó thở, tím tái.
+ Viêm đường ruột.
Điều trị viêm VA như thế nào?
Viêm VA thường được điều trị bằng kháng sinh hoặc các biện pháp như hút mũi, nhỏ mũi, khí dung mũi. Tuy nhiên, nếu trẻ bị nhiễm trùng thường xuyên bao gồm nhiễm trùng tai và xoang hoặc việc điều trị kháng sinh không hiệu quả, hoặc nếu có các vấn đề về hô hấp thì cần thực hiện phẫu thuật nạo VA.
Điều kiện để nạo VA
Nạo VA ít khi được chỉ định cho trẻ dưới 3 tuổi.
Không nạo VA trong thời kỳ viêm cấp vì có thể gây nhiễm trùng lan tỏa ra vùng xung quanh hoặc toàn thân.
Lưu ý: Nếu sau phẫu thuật người bệnh phát hiện có những dấu hiệu như chảy máu từ miệng hoặc mũi thì cần báo ngay với bác sĩ để được thăm khám, kiểm tra. Ngoài ra, không được tự ý cho trẻ dùng kháng sinh vì dễ gây nên tình trạng kháng kháng sinh ở trẻ.
Nguyễn Ngọc
Viêm màng não mủ do Haemophilus inuenzae type B (Hib) gây ra là một bệnh vô cùng nguy hiểm. Cứ 20 trẻ bị viêm màng não mủ do Hib sẽ có 1 trẻ tử vong, ngay cả khi được điều trị kịp thời. Bệnh lây lan nhanh, một số trẻ mang vi trùng Hib nhưng không có dấu hiệu hoặc triệu chứng gì của bệnh nên dễ phát tán ra cộng đồng.
Bệnh sốt xuất huyết xảy ra quanh năm, thường gia tăng vào mùa mưa. Sốt xuất huyết dengue (dengue hemorrhagic fever, DHF hay Sốt dengue (dengue fever, DF, đọc là đăng-gi) , tại Việt Nam thường được gọi chung là bệnh sốt xuất huyết, có biểu hiện nặng nhất của bệnh là hội chứng sốc dengue (dengue shock syndrome, DSS) được gây ra do Dengue virus (chi Flavivirus, họ Flaviviridae).
Virus cúm A là nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm trùng đường hô hấp ở người, với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao. Với các triệu chứng khó thở, thở gấp, khạc đờm đặc lẫn máu, dẫn đến nguy cơ viêm phổi cấp, thiếu oxy, đe dọa tính mạng người bệnh. Trẻ em, người cao tuổi, người có hệ miễn dịch suy yếu cần chủ động phòng ngừa chủng virus cúm nguy hiểm này.
Viêm tai giữa dễ mắc ở cả trẻ nhỏ lẫn trẻ sơ sinh. Nếu không được điều trị triệt để, bệnh có thể tái phát nhiều lần, gây ra các biến chứng nguy hiểm cho trẻ như nghe kém hoặc mất thính lực, thủng màng nhĩ, chậm nói hay chậm phát triển hoặc nhiễm trùng lan rộng.
Trong giai đoạn từ 6 đến 8 tháng tuổi thì trẻ sẽ bước vào giai đoạn mọc răng và quá trình mọc răng sẽ hoàn thiện hết khi đến 3 tuổi. Trong giai đoạn mọc răng của bé thì sẽ xảy ra rất nhiều vấn đề về sức khỏe kèm theo ảnh hưởng ít nhiều đến thể trạng của trẻ. Chính vì vậy việc chuẩn bị kiến thức đầy đủ để chăm sóc và đề phòng, tránh các vấn đề gây ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ khi mọc răng là điều hết sức quan trọng.
Đối với các bà mẹ bỉm sữa, hăm tã luôn là nỗi ám ảnh thường trực. Mặc dù không nghiêm trọng nhưng tình trạng này có thể khiến bé yêu trở nên cáu gắt, quấy khóc, ngủ không ngon… Từ đó, ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và tinh thần của bé trong những năm đầu đời. Làm thế nào để khắc phục nhanh vấn đề hăm tã giúp bé luôn cảm thấy thoải mái và dễ chịu? Nếu bạn đang có những băn khoăn này, hãy xem tiếp những chia sẻ của Thuocthang.com.vn để biết thêm một số cách trị hăm tã cho bé vừa đơn giản lại vừa hiệu quả.
Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào có thể gặp ở mọi cơ quan trong cơ thể, xảy ra ở mọi lứa tuổi kể cả trẻ mới sinh (do đột biến gen từ lúc trong bào thai). Trên thế giới, mỗi năm có thêm 160.000 trẻ bị ung thư và khoảng 90.000 trẻ chết do ung thư. Ở các nước phát triển (trong đó có Việt Nam), bệnh ung thư là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở trẻ em dưới 14 tuổi.
Ho là một trong những bệnh khá phổ biến trong độ tuổi của các bé từ 0-6 tuổi – độ tuổi có sức đề kháng yếu nhất. Các cơn ho kéo dài, vừa dứt tuần trước, tuần sau lại tái lại. Thông thường khi thời tiết chỉ cần thay đổi trở lạnh thì các bé rất dễ mắc các chứng cảm cúm, ho, viêm họng, sổ mũi, …