Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên ( Liệt mặt ngoại biên ) là bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính, không lây truyền. Vậy nguyên nhân của bệnh do đâu? Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên có nguy hiểm không và cần định hướng điều trị như thế nào là đúng? Hãy cùng Thuocthang.com.vn theo dõi trong bài viết sau đây.
LIỆT DÂY THẦN KINH SỐ VII NGOẠI BIÊN LÀ BỆNH GÌ ?
Dây thần kinh mặt (Dây VII) là dây thần kinh chi phối vận động cơ mặt và vùng cổ, thực hiện các động tác nhăn trán, nhắm mắt, hỉnh mũi, cười, huýt sáo, phồng má,... các biểu cảm cảm xúc tinh tế được thể hiện qua từng thớ cơ nhỏ trên mặt đều được thần kinh này điều khiển. Ngoài ra dây thần kinh VII còn chi phối cơ vùng tai giữa liên quan đến bộ phận tiếp nhận âm thanh và đảm nhiệm cảm nhận vị giác ở 2/3 trước lưỡi (vị mặn và ngọt là chủ yếu).
Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên hay còn gọi là liệt mặt ngoại biên, là tình trạng mất vận động hoàn toàn hay một phần các cơ của nửa mặt, do tổn thương dây thần kinh mặt. Tình trạng này trái ngược với liệt mặt trung ương là tổn thương liên quan đến não.
Đây là bệnh phổ biến đứng đầu trong số các bệnh của dây thần kinh mặt với số người mắc bệnh vào khoảng 20-60/100.000 người/năm. Mất chức năng thần kinh trên khuôn mặt do liệt dây thần kinh VII ngoại biên làm thay đổi sâu sắc hình ảnh, khả năng giao tiếp và thể hiện cảm xúc, tâm lý của người bệnh. Bệnh còn ảnh hưởng đến thị lực và cản trở khả năng thực hiện một số hoạt động thường ngày như ăn nhai, uống nước, vệ sinh răng miệng. Nặng nề hơn cả là di chứng co thắt cơ mặt lan tỏa, chảy nước mắt khi hoạt động cơ mặt do sự hồi phục vận động không hoàn toàn hay tái tạo bất thường của dây thần kinh VII... Tuy nhiên nếu được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, đúng cách có thể làm giảm tỷ lệ cũng như mức độ di chứng.
NGUYÊN NHÂN GÂY LIỆT MẶT NGOẠI BIÊN
Liệt mặt ngoại biên ( Liệt dây thần kinh VII ngoại biên ) thường có nguyên nhân do lạnh, hoặc do viêm.
- Liệt mặt ngoại biên do lạnh (còn gọi là liệt Bell): Mạch máu co thắt làm thiểu năng tuần hoàn máu tại chỗ, không nuôi dưỡng được dây thần kinh, hoặc các tổ chức trong xương đá (nơi thần kinh đi qua) phù nề chèn ép dây thần kinh gây liệt. Các trường hợp tự phát này thường tiến triển cấp tính và liên quan đến lạnh, thường xày ra vào ban đêm hay sáng sớm, chủ yếu vào mùa Đông Xuân
- Liệt mặt ngoại biên do Viêm: Nguyên nhân chính xác gây ra bệnh liệt ngoại biên vẫn chưa được biết, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng có thể là do nhiễm virus (virus herpes simplex hoặc herpes zoster) là nguyên nhân gây sưng và viêm dây thần kinh mặt (dây thần kinh số VII).
+ Herpes simplex type I: một loại virus phổ biến gây ra vết rộp ở môi, có trong nhiều trường hợp liệt mặt Bell nhưng vẫn chưa chứng minh được rằng có mối liên hệ trực tiếp giữa bệnh liệt Bell và virus.
+ Virus herpes zoster: gây bệnh zona và thủy đậu. Một số trường hợp sau liệt mặt vài ngày xuất hiện mụn nước ở lỗ ống tai ngoài, tuy nhiên đa số các trường hợp không thấy bất thường nhưng các chuyên gia vẫn tin rằng Virus herpes zoster là nguyên nhân gây ra một số trường hợp liệt của Bell vì virus ẩn náu trong các rễ thần kinh (giả thuyết này vẫn còn tranh cãi).
DẤU HIỆU NHẬN BIẾT
+ Đột ngột thấy hai bên mặt mất cân đối, nửa mặt bên liệt bất động, mất nếp nhăn trán.
+ Mắt nhắm không kín, lông mày sụp xuống, rãnh mũi - má mờ, góc mép miệng bị xệ xuống.(trẻ em phát hiện rõ khi trẻ khóc hoặc cười)
+ Chảy dãi hoặc nước một góc miệng, người bệnh không làm được các động tác: phồng má, cười, chu môi, hỉnh mũi, nhăn trán,...
Nếu thấy những triệu chứng trên, người bệnh nên đến cơ sở y tế uy tín để được thăm khám và điều trị phù hợp, quan trọng hơn là phân biệt liệt liệt mặt ngoại biên với dấu hiệu tổn thương thần kinh trung ương trong bệnh cảnh đột quỵ.
NGUY CƠ MẮC BỆNH LIỆT MẶT NGOẠI BIÊN ?
Một số người có nguy cơ mắc chứng mặt ngoại biên hơn những người khác. Nguy cơ cao hơn thường gặp ở người bệnh tiểu đường, phụ nữ mang thai (trong 3 tháng cuối hoặc tuần đầu tiên sau sinh), cúm hoặc nhiễm lạnh, sởi, quai bị, mụn rộp (Herpes simplex tuýp I), bệnh thủy đậu và zona (Herpes zoster), tiền sử gia đình có người liệt mặt...
CHẨN ĐOÁN LIỆT MẶT NGOẠI BIÊN
Việc chẩn đoán liệt dây VII ngoại biên thông qua hỏi tiền sử bệnh và các triệu chứng lâm sàng:
- Bệnh thường khởi phát đột ngột với liệt nửa mặt sau khi ngủ dậy, người bệnh cảm giác tê bì nửa mặt, nhìn vào gương thấy liệt nửa mặt hoặc khởi phát sau thay đổi thời tiết đột ngột.
- Dấu hiệu Charles bell: Người bệnh không nhắm kín mắt bên liệt.
- Ở trạng thái thư giãn: Mặt người bệnh không cân xứng, bị kéo lệch về bên lành. Mất nếp nhăn trán và nếp nhăn mũi má, mép bên liệt bị hạ thấp so với bên kia, thức ăn chảy ra miệng ở bên liệt.
- Không mất cảm giác nửa mặt bên liệt.
Để chẩn đoán chính xác tình trạng liệt dây thần kinh số VII ngoại biên, các bác sĩ cần khám tai mũi họng, thần kinh, chụp cộng hưởng từ và làm xét nghiệm máu để loại trừ tổn thương do liệt dây VII trung ương và các bệnh lý khác.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ LIỆT MẶT NGOẠI BIÊ
Hiện nay để điều trị liệt mặt ngoại biên, bao gồm điều trị bằng thuốc, vật lý trị liệu phục hồi chức năng và châm cứu phối hợp.
1. Phương Pháp Điều Trị Bằng Thuốc
Một vài loại thuốc sau được bác sĩ chỉ định trong điều trị bao gồm:
- Corticoid (Prednisolon): Liều 1 mg/ kg/ngày x 3 ngày đầu, sau đó giảm dần (giảm 10 mg mỗi 3 ngày) rồi cắt. Thuốc thường uống trong vòng 15 ngày. Chống chỉ định đối với những người có mẫn cảm với thuốc. Thận trọng khi có loãng xương, loét dạ dày thực quản, tiểu đường, tăng huyết áp, suy tim, trẻ em đang lớn. Tác dụng không mong muốn có thể mất ngủ, thần kinh dễ bị kích động, đục thể thuỷ tinh thể, glocom, phù, tăng huyết áp, viêm tuỵ, loét dạ dày thực quản.
- Thuốc kháng virus (Acyclovir, Famyclovir...): viên nén 200mg, 400mg, 800mg. Liều 800mg x 5 lần/ ngày, mỗi lần cách nhau 4 giờ. Thời gian điều trị từ 5-7 ngày, dùng ngay khi mới mắc hoặc khi mụn nước xuất hiện. Chống chỉ định khi có mẫn cảm với thuốc. Tác dụng không mong muốn như buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng nhức đầu. Thận trọng khi có thai và cho con bú.
- Kết quả nghiên cứu ở các nước Âu Mỹ cho thấy, điều trị phối hợp Corticoid và thuốc kháng virus Herpes có kết quả tốt hơn so với điều trị Corticoid đơn thuần.
- Các Vitamin nhóm B (B1, B6, B12): có tác dụng thúc đẩy phục hồi dây thần kinh bị tổn thương như tăng tổng hợp Acid nucleic và Protein ở tế bào thần kinh, tăng tổng hợp Lecithin (thành phần quan trọng của bao Myelin)
- Thuốc tái tạo và phục hồi bao Myelin: Cytidine-5 disodium-monophosphate ...
- Chăm sóc và bảo vệ mắt: nhỏ mắt hàng ngày bằng nước mắt nhân tạo, đeo kính bảo vệ mắt ban ngày để chống dị vật vào mắt gây viêm loét giác mạc, củng mạc và kết mạc mắt. Dùng băng dính không gây dị ứng dán lên mi mắt để trợ giúp chớp mắt ban ngày và nhắm mắt ban đêm đồng thời chống hiện tượng lộn mi ra ngoài.
- Ngoài ra có thể bổ sung Vitamin D và khoáng chất (magie, Calcium, Kali Clorua,...) Người bệnh nên kiêng muối và đường hấp thu nhanh. Tránh tập thể thao hoặc ở ngoài trời trong giai đoạn cấp.
2. Phương Pháp Vật Lý Trị Liệu Và Phục Hồi Chức Năng
Cùng với việc dùng thuốc, vật lý trị liệu và phục hồi chức năng đóng vai trò quan trọng giúp đạt kết quả cao trong điều trị và phòng biến chứng co cứng nửa mặt, đồng động mặt (xuất hiện nháy mắt hàng loạt khi cười). Phục hồi chức năng nên được tiến hành ngay tuần đầu tiên mắc bệnh.
Đối với những trường hợp co cứng nửa mặt hoặc đồng động cơ mặt gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ có thể dùng Toxin Botulinum tiêm tại chỗ để làm giảm co cứng.
3. Phương Pháp Châm Cứu Phối Hợp
Châm cứu có thể thực hiện sau 7-10 ngày kể từ khi mắc bệnh, nếu châm cứu được thực hiện ngay ngày đầu sau khi liệt có thể gây co cứng nửa mặt về sau.
Điều trị dự phòng liệt mặt Bell cho tới thời điểm hiện tại, chưa có phương pháp điều trị dự phòng hiệu quả. Vì thế bệnh nhân nên chủ động phòng tránh để không làm ảnh hưởng đến sức khỏe và mất tự tin trong cuộc sống.
TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
Nói chung liệt mặt không hoàn toàn luôn luôn khỏi không để lại di chứng. Liệt mặt hoàn toàn có thể để lại các di chứng khác nhau như:
- Các biến chứng mắt: viêm kết mạc, viêm giác mạc, loét giác mạc, lộn mí. Các biến chứng này có thể phòng tránh bằng nhỏ mắt bảo vệ, đeo kính, khâu sụn mí hoàn toàn hay một phần.
- Đồng vận: biểu hiện co cơ không tự chủ phối phợp với các hoạt động tự chủ như mép bị kéo khi nhắm mắt. Thất bại trong điều trị, phục hồi chức năng có thể giảm bớt khó chịu này.
- Co thắt nửa mặt sau liệt mặt: biến chứng này gặp ở các thể nặng do tổn thương thân thần kinh với phân bố lại thần kinh một phần.
- Hội chứng nước mắt cá sấu: hiếm gặp, biểu hiện chảy nước mắt khi ăn.
Vì vậy, để phát hiện sớm nguyên nhân gây bệnh, loại trừ những nguyên nhân thứ phát nguy hiểm, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được điều trị tích cực, có phương pháp phục hồi vận động cơ vùng mặt là rất cần thiết để trả lại
CÁCH PHÒNG BỆNH
Biện pháp phòng tránh liệt mặt ngoại biên là: luôn mặc đủ ấm, đêm ngủ đắp chăn ấm để tránh bị nhiễm lạnh (mùa lạnh), điều nhiệt không để dưới 25 độ (mùa nóng). Nâng cao sức đề kháng bằng cách ăn uống đầy đủ, tập thể thường xuyên; khi ra đường, hay đến nơi công cộng phải đeo khẩu trang để tránh bị lây nhiễm các bệnh do virut. Nơi ở và phòng ngủ cần tránh bị gió lùa...Đồng thời nâng cao thể trạng bằng cách ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, xoa bóp vùng mặt thường xuyên để tăng lưu thông tuần hoàn tại chỗ,
Khi đã mắc bệnh, phát hiện các dấu hiệu trên thì người bệnh không được chủ quan mà cần nhanh chóng đến các cơ sở y tế, để sớm tìm ra nguyên nhân và có phương pháp điều trị thích hợp, tránh để lại di chứng ảnh hưởng để thẩm mỹ và sinh hoạt.
Hoàng Quyên
Bạn cứ cảm thấy khó chịu vào những ngày thời tiết khô và lộng gió ? Bạn hắt xì liên tục khi đứng gần các vườn hoa? Bạn nghĩ mình bị cảm lạnh ư ? Không đâu, với các triệu chứng ở trên, rất có thể bạn đã bị dị ứng phấn hoa. Vậy nên, hãy Cùng Thuocthang.com.vn tìm hiểu tìm hiểu về căn bệnh khó chịu này và cách phòng chống hiệu quả nhé.
Bệnh viêm não Nhật Bản là tình trạng bệnh nhân bị nhiễm vi rút cấp tính làm cho thần kinh trung ương bị tổn thương, thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi. Vậy viêm não Nhật Bản là gì ? Triệu chứng viêm não Nhật Bản ?... Hãy cùng Thuocthang.com.vn tìm hiểu những thông tin chi tiết sau đây về bệnh viêm não Nhật Bản để có các biện pháp bảo vệ an toàn cho bản thân.
Hầu hết các trường hợp tăng bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng thường không nghiêm trọng và dễ xử lý. Nhưng nếu bệnh không được xử trí phù hợp, các biến chứng có thể trở nên trầm trọng. Nếu phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời sẽ cải thiện được tình trạng bệnh rõ rệt.
Viêm giác mạc do herpes là một bệnh nhiễm virus ở mắt. Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào mức độ, nếu không được điều trị kịp thời thì có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến mắt, thậm chỉ có thể làm giảm thị lực và mù lòa. Nếu phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời sẽ cải thiện được tình trạng bệnh rõ rệt. Trong bài viết dưới đây, Thuocthang.com.vn sẽ tổng hợp lại các phương pháp chuẩn đoán và điều trị viêm giác mạc do Virus Herpes. Mời bạn tham khảo.
Sùi mào gà không chỉ xuất hiện ở những nơi vùng kín mà ngay cả lưỡi, miệng chúng cũng xuất hiện. Đây không chỉ là nổi ám ảnh của những người mắc bệnh, mà bệnh còn ảnh hưởng rất lớn từ việc ăn uống, sinh hoạt cho đến tâm lý mặc cảm khi giao tiếp với người khác. Nguy hiểm hơn là chúng còn gây nhiễm trùng và biến chứng thành ung thư vòm họng, thậm chí còn đe dọa đến tính mạng của người bệnh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Bệnh sùi mào gà là một trong những căn bệnh xã hội thường gặp do virus HPV gây nên và có tính lây lan rất nhanh. Theo các bác sĩ chuyên khoa bệnh xã hội cho biết, sùi mào gà nếu không chữa trị đúng cách và kịp thời có thể tái phát nhiều lần gây khó khăn cho quá trình điều trị sau này cũng như tốn kém chi phí, đặc biệt là ảnh hưởng đến sức khỏe và những người xung quanh.
Hắc lào là một tình trạng nhiễm nấm khá phổ biến do nấm Tinera gây ra. Bệnh rất dễ lây lan và ai cũng có nguy cơ mắc bệnh, Tuy bệnh không gây nguy hiểm nhưng lại gây nên ngứ ngáy khó chịu và mất thẩm mỹ. Chữa hắc lào tại nhà bằng các mẹo dân gian, sử dụng nguyên liệu thiên nhiên là các điều trị được sử dụng từ xa xưa và có thể cho hiệu quả rất tốt.
Mặc dù mọi người đều biết đến căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, nhưng ít có ai trong chúng ta thực sự có kiến thức về các nguyên nhân, dấu hiệu nhiễm HIV để có thể phòng ngừa bệnh. Trong vài tuần đầu tiên sau khi nhiễm (một giai đoạn được gọi là nhiễm HIV cấp tính hoặc hội chứng retrovirus cấp tính), một số người nhận thấy những dấu hiệu như sốt, đau nhức người và đau họng. Nhưng sau giai đoạn nhiễm cấp, bệnh nhân chuyển sang giai đoạn lâm sàng tiềm tàng, hay HIV mạn tính, phần lớn không có triệu chứng.
Bệnh lậu là căn bệnh do lậu cầu khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây nên, thường lây truyền chủ yếu qua con đường tình dục. Theo các nghiên cứu, bệnh lậu đang có xu hướng tăng và lan truyền nhanh với mức độ nguy hiểm. Việc thiếu hiểu biết về căn bệnh này chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên và nhiều người điều trị khi bệnh đã ở mức độ nặng, có nguy cơ gây ra các biến chứng nguy hiểm.