Bệnh thủy đậu do virus gây ra. Vì vậy thuốc kháng sinh sẽ không có tác dụng chữa bệnh. Tuy nhiên đôi khi kháng sinh cũng được sử dụng nếu vi khuẩn xâm nhiễm vào các vết loét. Trường hợp này khá phổ biến ở trẻ em vì chúng thường gãi. Khi bé bị thủy đậu bố mẹ nên cho bé đi bệnh viện khám chữa. Các bác sĩ sẽ quyết định quá trình điều trị dựa vào độ tuổi, sức khỏe và mức độ nhiễm trùng của bé. Một loại thuốc kháng virus có thể được kê đơn cho các bé bị thủy đậu có nguy cơ bị biến chứng.
Bệnh thủy đậu hay còn gọi là bệnh trái rạ là những bệnh ngoài da thường gặp ở người lớn và trẻ em. Biểu hiện chính của bệnh là các tổn thương dạng bóng nước trên da và niêm mạc. Sau khi siêu vi xâm nhập cơ thể, phải qua thời gian khoảng 10-20 ngày (gọi là thời kỳ ủ bệnh) người bệnh mới xuất hiện các triệu chứng của một người nhiễm siêu vi (sốt, đau đầu, uể oải, chán ăn…).
Bệnh rất truyền nhiễm và lây lan qua sự đụng chạm đến ban ngứa từ người bị thủy đậu hoặc qua những giọt nước nhỏ trong không khí từ miệng hay mũi của một người bị nhiễm (ví dụ, khi một người bị nhiễm trái rạ hắt hơi nhảy mũi hoặc ho).
Bệnh cũng có thể lây lan qua sự tiếp xúc đến quần áo hoặc vải trải giường bị ô nhiễm bởi chất dịch từ ban ngứa hoặc từ miệng hay mũi của người bị bệnh.
Bệnh phát triển trong vòng 10-21 ngày sau khi tiếp xúc với người bị nhiễm bệnh. Bệnh thủy đậu có thể lây từ 1-2 ngày trước khi nổi ban ngứa cho đến khi tất cả những vết phồng đã đóng vảy (thông thường trong vòng 5 ngày từ khi những vết phồng nổi lên). Những người nào có hệ miễn dịch bị suy yếu mà bị trái rạ thì có thể phải mất một thời gian lâu hơn để những mụn thủy đậu của họ đóng vảy.
Khoảng 90% những người nào chưa từng bị thủy đậu trong gia đình sẽ mắc bệnh, nếu tiếp xúc với một người thân bị nhiễm bệnh. Do đó, Cách phòng ngừa là cần cho trẻ tránh xa người bệnh đang bị thủy đậu để tránh lây truyền. An toàn hơn cả là cho trẻ tiêm phòng vacxin thủy đậu theo lịch tiêm chủng mở rộng.
Nguyên Nhân Bệnh Thủy Đậu
Bệnh thủy đậu có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng hầu hết là ở trẻ em vào mùa đông xuân.
Bệnh do một loại siêu virus có tên Varicella-zoster gây ra. Loại virus này có acid nhân là AND, kích thước của chúng khoảng từ 150 – 200mm. Varicella-zoster gây ra bệnh thủy đậu và bệnh zona thần kinh (thường gặp ở người lớn).
Bệnh lây trực tiếp qua đường hô hấp khi tiếp xúc với người khác có nguồn bệnh (nói chuyện, ho hoặc hắt hơi). Bệnh cũng có thể lây gián tiếp qua đồ dùng sinh hoạt hằng ngày của bệnh nhân. Một số trẻ có thể lây bệnh nếu tiếp xúc với người lớn bị zona thần kinh.
Bệnh lây lan rất nhanh và nặng hơn ở trẻ dưới 5 tuổi và người cao tuổi. Đặc biệt nếu phụ nữ mắc bệnh trong 3 tháng đầu mang thai sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cấu tạo và sức khỏe của thai nhi.
Triệu Chứng Bệnh Thủy Đậu
Kể từ khi bạn bị nhiễm virus gây bệnh thủy đậu do tiếp xúc với người bị thủy đậu, sống chung môi trường với người bị thủy đậu mà hệ miễn dịch bị tổn thương cho đến khi bệnh bắt đầu có triệu chứng biểu hiện trên cơ thể trung bình là 14 ngày, có người bị sớm hơn (10-12 ngày) và có người trên 20 ngày mới bị phát bệnh.
Khi bệnh thủy đậu mới phát sinh, trên cơ thể bạn sẽ nổi những mụn nước có màu hồng nhạt ở các bộ phận như mặt, chân, tay, và nhanh chóng lan ra trên toàn thân trong vòng 24 giờ. Người bệnh có thể bị từ vài nốt mụn đến hơn 500 mụn nước trên cơ thể tùy theo bị nhiễm bệnh nặng nhẹ và cơ địa, sức đề kháng từng người khác nhau.
Mụn nước do bệnh thủy đậu gây nên có kích thước nhỏ, bên trong có dịch nước, tuy nhiên nếu bạn bị nhiễm nặng thì kích thước của mụn nước có thể lớn hơn thậm chí có màu đục do chứa mủ bên trong.
Nếu là trẻ em bị nhiễm bệnh, bé có thể kèm theo triệu chứng sốt nhẹ từ 37-38 độ C, biếng ăn, cơ thể bé khó chịu nên hay “chướng tính”, hay khóc, ho ít, nước mũi loãng trong.
Nếu là người lớn bị nhiễm bệnh, thường kèm theo triệu chứng sốt cao có thể trên 40 độ C, đau đầu, đau họng, các cơ đau nhức, toàn thân mệt mỏi, rã rời, buồn nôn và nôn nhiều.
Ở những vùng bị nổi mụn nước bạn có cảm giác nóng ran, ngứa rất nhiều, nếu bạn càng gãi, mụn nước bị vỡ ra thì bệnh càng nặng và nguy cơ nhiễm trùng, biến chứng càng nghiêm trọng hơn.
Cách Điều Trị Bệnh Thủy Đậu Ở Trẻ Em
Bệnh thủy đậu do virus gây ra. Vì vậy thuốc kháng sinh sẽ không có tác dụng chữa bệnh. Tuy nhiên đôi khi kháng sinh cũng được sử dụng nếu vi khuẩn xâm nhiễm vào các vết loét. Trường hợp này khá phổ biến ở trẻ em vì chúng thường gãi.
Khi bé bị thủy đậu bố mẹ nên cho bé đi bệnh viện khám chữa. Các bác sĩ sẽ quyết định quá trình điều trị dựa vào độ tuổi, sức khỏe và mức độ nhiễm trùng của bé. Một loại thuốc kháng virus có thể được kê đơn cho các bé bị thủy đậu có nguy cơ bị biến chứng.
Để giúp bé giảm sốt, bớt ngứa bố mẹ có thể áp dụng các phương pháp sau tại nhà:
- Khi bé bị thủy đậu bố mẹ cần cách ly bé khỏi những người khác trong nhà để phòng tránh lây bệnh. Các đồ dùng cá nhân của bé như bát đũa, bàn chải, khăn mặt… phải dùng riêng và được tẩy trùng sạch sẽ.
- Bố mẹ giữ vệ sinh sạch sẽ cho bé bằng cách cho bé tắm nước ấm và dùng khăn mềm mại để lau người nhẹ nhàng. Khi tắm cho bé cần tránh làm vỡ các nốt thủy đậu. Sau khi tắm xong dùng khăn xô thấm khô người và mặc quần áo cho bé.
- Móng tay của bé nên được cắt ngắn và rửa sạch sẽ. Đối với trẻ nhỏ, bố mẹ cần cho bé mang găng tay để tránh gãi làm xước các nốt thủy đậu.
- Cho bé uống nhiều nước, điều này giúp ngăn ngừa việc bé bị mất nước.
- Cho bé ăn đồ ăn mềm, mát và nhạt vì bệnh thủy đậu có thể khiến cho việc ăn uống khó khăn. Bố mẹ nên tránh cho bé ăn các loại đồ ăn có tính axit hoặc nhiều muối như nước cam, bánh quy. Thực đơn của bé phải đa dạng và giàu chất dinh dưỡng để giúp tăng cường sức đề kháng.
- Cho bé mặc quần áo thoải mái không quá lạnh hoặc quá nóng. Quần áo nên được làm từ các loại vải mềm mát như vải bông.
Đặc biệt, khi thấy trẻ có biểu hiện của bệnh thủy đậu phải đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám, tư vấn, theo dõi và điều trị bệnh kịp thời.
Khi Bé Bị Thủy Đậu Bố Mẹ Cần Kiêng Kị Những Việc Sau:
- Kiêng dùng thuốc aspirin: Không cho bé sử dụng aspirin vì nó có khả năng gây ra một bệnh hiếm gặp nhưng rất nguy hiểm gọi là hội chứng Reye, có thể dẫn đến suy gan và thậm chí tử vong.
- Kiêng gãi, làm vỡ nốt thủy đậu: Bố mẹ cần nhắc bé không gãi để tránh làm vỡ và xước các nốt thủy đậu. Vì khi các nốt dạ bị vỡ sẽ để lại sẹo, dễ bị nhiễm trùng và khiến bệnh lây lan sang các vùng da khác nhanh hơn.
- Kiêng dùng chung đồ: Để tránh lây lan bệnh bố mẹ cần cách ly bé khỏi mọi thành viên trong nhà. Đồ dùng của bé phải dùng riêng và được tẩy trùng sạch sẽ.
- Kiêng gặp mọi người: Bệnh thủy đậu rất dễ lây lan vì vậy bố mẹ nên cho bé nghỉ học khi bị bệnh.
Mrs Nguyễn Ngọc
Bạn cứ cảm thấy khó chịu vào những ngày thời tiết khô và lộng gió ? Bạn hắt xì liên tục khi đứng gần các vườn hoa? Bạn nghĩ mình bị cảm lạnh ư ? Không đâu, với các triệu chứng ở trên, rất có thể bạn đã bị dị ứng phấn hoa. Vậy nên, hãy Cùng Thuocthang.com.vn tìm hiểu tìm hiểu về căn bệnh khó chịu này và cách phòng chống hiệu quả nhé.
Bệnh viêm não Nhật Bản là tình trạng bệnh nhân bị nhiễm vi rút cấp tính làm cho thần kinh trung ương bị tổn thương, thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi. Vậy viêm não Nhật Bản là gì ? Triệu chứng viêm não Nhật Bản ?... Hãy cùng Thuocthang.com.vn tìm hiểu những thông tin chi tiết sau đây về bệnh viêm não Nhật Bản để có các biện pháp bảo vệ an toàn cho bản thân.
Hầu hết các trường hợp tăng bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng thường không nghiêm trọng và dễ xử lý. Nhưng nếu bệnh không được xử trí phù hợp, các biến chứng có thể trở nên trầm trọng. Nếu phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời sẽ cải thiện được tình trạng bệnh rõ rệt.
Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên ( Liệt mặt ngoại biên ) là bệnh thường gặp ở mọi lứa tuổi, không phân biệt giới tính, không lây truyền. Vậy nguyên nhân của bệnh do đâu? Liệt dây thần kinh số VII ngoại biên có nguy hiểm không và cần định hướng điều trị như thế nào là đúng? Hãy cùng Thuocthang.com.vn theo dõi trong bài viết sau đây.
Viêm giác mạc do herpes là một bệnh nhiễm virus ở mắt. Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào mức độ, nếu không được điều trị kịp thời thì có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến mắt, thậm chỉ có thể làm giảm thị lực và mù lòa. Nếu phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời sẽ cải thiện được tình trạng bệnh rõ rệt. Trong bài viết dưới đây, Thuocthang.com.vn sẽ tổng hợp lại các phương pháp chuẩn đoán và điều trị viêm giác mạc do Virus Herpes. Mời bạn tham khảo.
Sùi mào gà không chỉ xuất hiện ở những nơi vùng kín mà ngay cả lưỡi, miệng chúng cũng xuất hiện. Đây không chỉ là nổi ám ảnh của những người mắc bệnh, mà bệnh còn ảnh hưởng rất lớn từ việc ăn uống, sinh hoạt cho đến tâm lý mặc cảm khi giao tiếp với người khác. Nguy hiểm hơn là chúng còn gây nhiễm trùng và biến chứng thành ung thư vòm họng, thậm chí còn đe dọa đến tính mạng của người bệnh nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Bệnh sùi mào gà là một trong những căn bệnh xã hội thường gặp do virus HPV gây nên và có tính lây lan rất nhanh. Theo các bác sĩ chuyên khoa bệnh xã hội cho biết, sùi mào gà nếu không chữa trị đúng cách và kịp thời có thể tái phát nhiều lần gây khó khăn cho quá trình điều trị sau này cũng như tốn kém chi phí, đặc biệt là ảnh hưởng đến sức khỏe và những người xung quanh.
Hắc lào là một tình trạng nhiễm nấm khá phổ biến do nấm Tinera gây ra. Bệnh rất dễ lây lan và ai cũng có nguy cơ mắc bệnh, Tuy bệnh không gây nguy hiểm nhưng lại gây nên ngứ ngáy khó chịu và mất thẩm mỹ. Chữa hắc lào tại nhà bằng các mẹo dân gian, sử dụng nguyên liệu thiên nhiên là các điều trị được sử dụng từ xa xưa và có thể cho hiệu quả rất tốt.
Mặc dù mọi người đều biết đến căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, nhưng ít có ai trong chúng ta thực sự có kiến thức về các nguyên nhân, dấu hiệu nhiễm HIV để có thể phòng ngừa bệnh. Trong vài tuần đầu tiên sau khi nhiễm (một giai đoạn được gọi là nhiễm HIV cấp tính hoặc hội chứng retrovirus cấp tính), một số người nhận thấy những dấu hiệu như sốt, đau nhức người và đau họng. Nhưng sau giai đoạn nhiễm cấp, bệnh nhân chuyển sang giai đoạn lâm sàng tiềm tàng, hay HIV mạn tính, phần lớn không có triệu chứng.
Bệnh lậu là căn bệnh do lậu cầu khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây nên, thường lây truyền chủ yếu qua con đường tình dục. Theo các nghiên cứu, bệnh lậu đang có xu hướng tăng và lan truyền nhanh với mức độ nguy hiểm. Việc thiếu hiểu biết về căn bệnh này chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên và nhiều người điều trị khi bệnh đã ở mức độ nặng, có nguy cơ gây ra các biến chứng nguy hiểm.